Hợp đồng Thương mại Quốc tế - Những nội dung doanh nghiệp cần quan tâm
Hợp đồng Thương mại Quốc tế - Những nội dung doanh nghiệp cần quan tâm
Hợp đồng thương mại quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ thương mại quốc tế. Hợp đồng thương mại quốc tế có rất nhiều loại, chẳng hạn như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao công nghệ... Sau đây là nội dung Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, một trong những loại Hợp đồng thương mại quốc tế thường gặp có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
- 1. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (còn được gọi là hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc hợp đồng xuất nhập khẩu) là hợp đồng mua bán hàng hoá có tính chất quốc tế (có yếu tố nước ngoài, có nhân tố nước ngoài). Tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được hiểu không giống nhau tuỳ theo quan điểm của luật pháp từng nước.
- Theo Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình: tính chất quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hoá, đối tượng của hợp đồng, được chuyển qua biên giới một nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau (Điều 1 của Công ước).
Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng Mua bán Quốc tế Hàng hoá (United Nations Convention on Contracts for International Sales of Goods, Vienna 1980 - CISG, gọi tắt là Công ước Viên năm 1980): tính chất quốc tế được xác định chỉ bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau (điều 1 Công ước Viên năm 1980). Và, giống như Công ước Lahaye năm 1964, Công ước này cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Khác với Công ước Lahaye năm 1964, Công ước Viên năm 1980 không đưa ra tiêu chí hàng hoá phải được chuyển qua biên giới của một nước để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Theo quan điểm của Pháp: khi xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý. Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo nên sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói cách khác, hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế. Theo tiêu chuẩn pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán…
- Theo quan điểm của Việt Nam:
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không đưa ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà liệt kê những hoạt động được coi là mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 27 nêu rõ mua bán quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu.
Sau khi liệt kê như vậy Luật Thương mại năm 2005 đã xác định rõ thế nào là xuất khẩu; nhập khẩu; tạm nhập tái xuất; tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu:
"Xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật" (Điều 28 Khoản 1).
"Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật" (Điều 28 Khoản 2).
"Tạm nhập, tái xuất hàng hoá là việc hàng hoá được đưa từ lãnh thổ nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam" (Điều 29 Khoản 1).
"Tạm xuất, tái nhập hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam" (Điều 29 Khoản 2).
"Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam" (Điều 30 Khoản 1).
Với năm khái niệm về xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu nêu trên, có thể thấy Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đã sử dụng tiêu chí hàng hóa phải là động sản; hàng có thể được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước (vùng lãnh thổ); hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng... để xem xét tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Như vậy, nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là bất bộng sản thì hợp đồng đó không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho dù bất động sản được bán cho người nước ngoài. Mua bán bất động sản với người nước ngoài phải theo một cơ chế pháp lý riêng.
- 2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
So với hợp đồng mua bán trong nước, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có những đặc điểm sau đây:
2.1. Về chủ thể: chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên, người bán và người mua, có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
2.2. Về đối tượng của hợp đồng: hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là động sản, tức là hàng có thể chuyển qua biên giới của một nước.
2.3. Về đồng tiền thanh toán: Tiền tệ dùng để thanh toán thường là nội tệ hoặc có thể là ngoại tệ đối với các bên. Ví dụ: hợp đồng được giao kết giữa người bán Việt Nam và người mua Hà Lan, hai bên thoả thuận sử dụng đồng euro làm đồng tiền thanh toán. Lúc này, đồng euro là ngoại tệ đối với phía người bán Việt Nam nhưng lại là nội tệ đối với người mua Hà Lan. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đồng tiền thanh toán đều là nội tệ của cả hai bên, như trường hợp các doanh nghiệp thuộc các nước trong cộng đồng châu Âu sử dụng đồng euro làm đồng tiền chung.
2.4. Về ngôn ngữ của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường được ký kết bằng tiếng nước ngoài, trong đó phần lớn là được ký bằng tiếng Anh. Điều này đòi hỏi các bên phải giỏi ngoại ngữ.
2.5. Về cơ quan giải quyết tranh chấp: tranh chấp phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể là toà án hoặc trọng tài nước ngoài. Và một lần nữa, vấn đề ngoại ngữ lại được đặt ra nếu muốn chủ động tranh tụng tại tòa án hoặc trọng tài nước ngoài.
2.6. Về luật điều chỉnh hợp đồng (luật áp dụng cho hợp đồng): luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang tính chất đa dạng và phức tạp. Điều này có nghĩa là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể phải chịu sự điều chỉnh không phải chỉ của luật pháp nước đó mà cả của luật nước ngoài (luật nước người bán, luật nước người mua hoặc luật của bất kỳ một nước thứ ba nào), thậm chí phải chịu sự điều chỉnh của điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế hoặc cả án lệ (tiền lệ pháp) để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, dù được giao kết hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu, bản thân nó cũng không thể dự kiến, chứa đựng tất cả những vấn đề, những tình huống có thể phát sinh trong thực tế. Do đó, cần phải bổ sung cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng đó. Vì hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế nên luật điều chỉnh hợp đồng này cũng có thể là luật người người bán, cũng có khi là luật nước người mua... Nếu luật áp dụng là luật nước người mua thì luật này là luật nước ngoài đối với người bán. Người bán phải có sự hiểu biết về nó, trong đó ít ra người bán phải hiểu rõ được luật này có bảo vệ quyền lợi cho người bán hay không. Và ngược lại, đối với người mua cũng vậy. Như vậy, không chỉ người bán và người mua cần có sự hiểu biết để lựa chọn, để tuân thủ luật áp dụng mà ngay cả cơ quan giải quyết tranh chấp (tòa án hoặc trọng tài) cũng phải nghiên cứu vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng đó thì mới có thể làm tốt được chức năng, nhiệm vụ của mình.
Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế, trong mua bán hàng hóa quốc tế, các bên có quyền tự do thoả thuận chọn nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia, điều ước quốc tế về thương mại hoặc tập quán thương mại quốc tế và thậm chí cả các án lệ (tiền lệ xét xử). Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là nên chọn nguồn luật nào, làm thế nào để chọn được nguồn luật thích hợp nhất để có thể bảo vệ được quyền lợi của mình? Để chọn được luật áp dụng phù hợp, cần phải nắm được một số nguyên tắc sau đây.
- a. Lựa chọn luật quốc gia
Khi nào luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế?
Khi hợp đồng quy định: Có hai cách quy định. Cách thứ nhất là các bên quy định về luật áp dụng ngay từ giai đoạn đàm phán, ký kết hợp đồng, bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng rằng luật của một nước nào đó sẽ được áp dụng cho hợp đồng. Trường hợp này gọi là các bên đã quy định trong hợp đồng điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng. Ví dụ:
"Mọi vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng này sẽ được giải quyết theo luật Việt Nam"
Hoặc:
"Các vấn đề phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này được giải quyết theo luật nước người bán".
Khi tranh chấp phát sinh, các bên và tòa án có thể dựa vào luật Việt Nam hoặc luật nước người bán để giải quyết.
Cách thứ hai là các bên thoả thuận lựa chọn luật quốc gia là luật áp dụng cho hợp đồng sau khi ký kết hợp đồng, thậm chí khi tranh chấp phát sinh. Cách này được các bên áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà các bên đã ký trước đó không có điều khoản về luật áp dụng. Trong thực tế, cách này là rất khó áp dụng vì các bên khó có thể đạt được một sự nhất trí về việc chọn luật áp dụng khi mà tranh chấp đã phát sinh: người bán thì chỉ muốn áp dụng luật của nước nào bảo vệ được quyền lợi cho mình trong khi đó người mua cũng chỉ muốn áp dụng luật của nước bảo vệ được quyền lợi cho mình. Trong trường hợp này, hai bên chỉ đạt được sự thống nhất khi luật được lựa chọn là luật không nghiêng quá về bảo vệ quyền lợi cho bên nào. Công ước Viên năm 1980 là giải pháp tối ưu cho các bên trong trường hợp này.
Khi toà án hoặc trọng tài quyết định:
Điều 7 khoản 2 của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 quy định: "Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn (...)
Trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng Trọng tài quyết định".
Như vậy, Trọng tài thương mại Việt Nam sẽ có quyền chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế khi phát sinh tranh chấp nếu như các bên không thoả thuận được luật áp dụng.
Khi hợp đồng mẫu quy định:
Trong rất nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, để tiết kiệm thời gian, các bên thường chỉ quy định những nội dung cơ bản liên quan đến đối tượng mua bán và giá cả. Những nội dung còn lại, các bên thường dẫn chiếu đến hợp đồng mẫu. Hợp đồng mẫu thường được các tập đoàn, công ty buôn bán lớn soạn thảo. Ví dụ: Hợp đồng mẫu của ITC về mua bán quốc tế hàng hóa dễ hỏng (The ITC Model Contract for the International Sale of Perishable Goods), Hợp đồng mẫu của ICC về hàng hóa được sản xuất để bán lại (The ICC Model International Sale Contract on Manufactured Goods Intended for Resale) v.v...Những hợp đồng mẫu này chỉ có giá trị khi được các bên tham chiếu bằng cách chỉ rõ trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế rằng quyền và nghĩa vụ của các bên được điều chỉnh bởi hợp đồng mẫu kèm theo. Trong trường hợp này, hợp đồng mẫu sẽ có giá trị bắt buộc đối với các bên và, nếu trong hợp đồng mẫu có quy định điều khoản về luật áp dụng thì luật đó đương nhiên sẽ là luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà hai bên đã ký kết.
Như vậy, luật quốc gia của một nước có thể tác động đến mối quan hệ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thông qua những cách thức nêu trên (xem hình 1). Mà những cách thức này đôi khi lại không được các bên chú ý. Điều này cho thấy rõ vì sao các doanh nghiệp Việt Nam phải nghiên cứu vấn đề này, để không rơi vào thế bị động.
- b. Lựa chọn tập quán quốc tế về thương mại
Tập quán quốc tế về thương mại có thể là luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Tập quán quốc tế về thương mại là những thói quen, phong tục về thương mại được nhiều nước áp dụng và áp dụng một cách thường xuyên với nội dung rõ ràng để dựa vào đó các bên xác định quyền và nghĩa vụ với nhau.
Thông thường, tập quán quốc tế về thương mại được chia thành ba nhóm: các tập quán có tính chất nguyên tắc; các tập quán thương mại quốc tế chung và các tập quán thương mại khu vực.
Tập quán có tính chất nguyên tắc: là những tập quán cơ bản, bao trùm được hình thành trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và luật quốc gia như nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc. Ví dụ: Toà án (hoặc trọng tài) của nước nào thì có quyền áp dụng các quy tắc tố tụng của nước đó khi giải quyết những vấn đề về thủ tục tố tụng trong các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Tập quán thương mại quốc tế chung: là các tập quán thương mại được nhiều nước công nhận và được áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới. Ví dụ: Incoterms năm 2000 (Các Điều kiện Thương mại Quốc tế) do Phòng Thương mại Quốc tế tập hợp và soạn thảo được rất nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận và áp dụng trong hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Hay UCP 500 do ICC ban hành đưa ra các quy tắc để thực hành thống nhất về thư tín dụng cũng được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng vào hoạt động thanh toán quốc tế.
Tập quán thương mại khu vực (địa phương): là các tập quán thương mại quốc tế được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng. Ví dụ: ở Hoa Kỳ cũng có điều kiện cơ sở giao hàng FOB. Điều kiện FOB Hoa Kỳ được đưa ra trong "Định nghĩa ngoại thương của Mỹ sửa đổi năm 1941", theo đó có 6 loại FOB mà quyền và nghĩa vụ của bên bán, bên mua rất khác biệt so với điều kiện FOB trong Incoterms năm 2000. Chẳng hạn, với FOB người chuyên chở nội địa quy định tại điểm khởi hành nội địa quy định (named inland carrier at named inland point of departure), người bán chỉ có nghĩa vụ đặt hàng hoá trên hoặc trong phương tiện chuyên chở hoặc giao cho người chuyên chở nội địa để bốc hàng.
Khi nào tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng?
Tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế khi:
- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy định.
- Các điều ước quốc tế liên quan quy định.
- Luật thực chất (luật quốc gia) do các bên lựa chọn không có hoặc có nhưng không đầy đủ.
Tập quán quốc tế về thương mại chỉ có giá trị bổ sung cho hợp đồng. Vì vậy, những vấn đề gì hợp đồng đã quy định thì tập quán quốc tế không có giá trị, hay nói cách khác, hợp đồng mua bán hàng hóa có giá trị pháp lý cao hơn so với tập quán thương mại quốc tế. Khi áp dụng, cần chú ý là do tập quán quốc tế về thương mại có nhiều loại nên để tránh sự nhầm lẫn hoặc hiểu không thống nhất về một tập quán nào đó, cần phải quy định cụ thể tập quán đó trong hợp đồng.
Ví dụ: điều khoản giá: giá hàng là 250 USD/MT FOB Hải Phòng Incoterms năm 2000.
Incoterms năm 2000 được hiểu là áp dụng bản Quy tắc của ICC về các điều kiện thương mại quốc tế, bản sửa đổi năm 2000. Việc nêu cụ thể Incoterms 2000 sẽ giúp chúng ta tránh áp dụng nhầm các bản sửa đổi Incoterms trước đó, như bản sửa đổi năm 1980, 1990…
Khi áp dụng tập quán quốc tế về thương mại, các bên cần phải chứng minh nội dung của tập quán đó. Do đó, nếu các bên biết trước những thông tin về tập quán thương mại quốc tế đó trước khi bước vào đàm phán sẽ rất thuận lợi. Các thông tin đó các bên có thể tìm hiểu thông qua sách báo, tài liệu hoặc ở các văn bản của các Phòng Thương mại (Phòng Thương mại và Công nghiệp), ở các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài…
Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, cần phải tiến hành phân loại tập quán quốc tế. Nếu có tập quán chung và tập quán riêng thì tập quán riêng có giá trị trội hơn: ví dụ: FOB Incoterms năm 2000 là tập quán chung; FOB cảng đến (shipment to destination) của Hoa Kỳ là tập quán riêng nên FOB shipment to destination của Hoa Kỳ sẽ được ưu tiên áp dụng. Nếu có tập quán mặt hàng và tập quán ngành hàng thì tập quán mặt hàng sẽ được ưu tiên áp dụng.
Một số điểm cần chú ý khi áp dụng Incoterms năm 2000
Incoterms là chữ viết tắt của các điều kiện thương mại quốc tế (International Commercial Terms). Tập sách nhỏ này, ra đời năm 1953, ban đầu xác định 9 điều kiện thương mại, hai điều kiện quen thuộc nhất là FOB (giao hàng lên tàu tại cảng đi) và CIF (giao hàng qua mạn tàu - tại cảng đến) và với mỗi điều kiện, liệt kê nghĩa vụ của người bán và người mua dưới hình thức rất đơn giản: "người mua có nghĩa vụ …, người bán có nghĩa vụ …".
Ngày nay (2000) đã có tới 13 điều kiện và với mỗi điều kiện đều có quy định cụ thể nghĩa vụ của hai bên mua bán.
Nhưng cần lưu ý rằng Incoterms chỉ giải quyết bốn vấn đề:
- Chuyển giao rủi ro vào thời điểm nào?
- Ai phải lo liệu các chứng từ hải quan?
- Ai chịu trách nhiệm về chi phí vận tải?
- Ai trả phí bảo hiểm?
Một số nhà chuyên môn gọi các Incoterms là "các điều khoản … giá" vì rằng chúng cho phép chỉ rõ, không mập mờ, các nghĩa vụ bao hàm trong giá hàng được đưa ra.
Ví dụ, bán hàng theo điều kiện FOB Incoterms năm 2000 quy định chi phí vận tải biển và bảo hiểm do người mua chịu, người bán phải giao hàng lên tàu do người mua chỉ định; rủi ro được chuyển sang người mua khi hàng qua lan can tàu tại cảng bốc hàng.
Các Incoterms tạo ra sự giúp đỡ quý báu trong đàm phán, với điều kiện tôn trọng các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1:
Ghi rõ là hiểu theo Incoterms năm nào. Trong hợp đồng hãy ghi rõ: "FOB" (hay CIF/C&F v.v…) Incoterms năm …". Nhất thiết phải ghi chữ INCOTERMS: bao hàm ý là doanh nghiệp chiểu theo bản quy định của Phòng Thương mại quốc tế.
Nếu sơ suất không ghi Incoterms, chỉ ghi FOB có thể hiểu là chiểu theo một cách định nghĩa FOB khác đi.
Tại một số nước (đặc biệt là Hoa Kỳ) luật lệ nhiều địa phương định nghĩa điều kiện bán hàng FOB rất khác nhau. Do vậy, nếu trong hợp đồng ký với một hãng Hoa Kỳ, bạn ghi - "giá FOB…" có nhiều rủi ro là hai bên sẽ phải tranh cãi trong quá trình thực hiện: "đó là giá FOB Hoa Kỳ hay FOB Incoterms"?
Do không ghi rõ, bạn có thể phải chấp nhận điều kiện FOB Hoa Kỳ theo đó nghĩa vụ của người bán sẽ nặng hơn.
Cũng vậy, bạn hay ghi cho chính xác, viết rõ ràng theo lối ghi: thỏa thuận theo điều kiện FOB (cảng …) theo Incoterms năm 2000 của Phòng Thương mại quốc tế.
Nguyên tắc 2: Các điều kiện Incoterms chỉ mang tính chất bổ sung.
Ý chí rõ ràng của các nhà soạn thảo là dùng Incoterms bổ sung cho sự thiếu chính xác trong hợp đồng. Điều này chỉ có nghĩa là áp dụng Incoterms khi không có quy định cụ thể của hợp đồng. (Điều 5 của Incoterms: Mọi quy định trong quy tắc phải nhường bước cho các quy định riêng được các bên đưa vào hợp đồng).
Hãy tránh mắc phải sai sót như công ty X của Trung Quốc:
Công ty này chế tạo và bán ra các máy khác nhau cho phép nghiền nát hồ dán trên bề mặt vật phẩm. Theo yêu cầu của một khách hàng Thụy Điển, công ty X ghi là rủi ro chuyển giao khi dỡ hàng, đồng thời lại ghi điều kiện bán hàng FOB trong cùng hợp đồng. Ghi như vậy, công ty vẫn nghĩ rằng rủi ro chuyển giao khi xếp hàng. Như vậy, công ty đã hiểu sai quy định là Incoterms không có giá trị khi có quy định ngược lại trong hợp đồng.
Nguyên tắc 3: Incoterms không giải quyết tất cả mọi mối quan hệ.
Hãy hiểu rõ các giới hạn của Incoterms. Chúng dự tính chỉ một số nội dung. Ví dụ, chúng chỉ quy định chuyển giao rủi ro chứ không hề quy định chuyển giao sở hữu. Chuyển giao sở hữu do các bên tham gia hợp đồng thỏa thuận.
Cũng vậy, không có quy định gì về nghĩa vụ bảo hành của người bán khi bán hàng hay các phương thức thanh toán hay kiểm tra sản phẩm bán ra. Các nội dung này hợp đồng quy định.
Dẫu sao, Incoterms cũng tạo nên một công cụ có hiệu quả, đặc biệt là xác định thời điểm chuyển rủi ro.
Chọn điều kiện Incoterms nào?
Không có điều kiện Incoterms tốt hay xấu. Tất cả tùy thuộc vào bạn và điều kiện cụ thể mà bạn muốn chào bán hay nhận được (vận tải, bảo hiểm, nhận trách nhiệm và chi phí về hải quan).
Tuy nhiên, khi giao dịch với một số nước, quyền tự do lựa chọn của bạn bị hạn chế. Ví dụ, Algérie áp đặt điều kiện cho các doanh nghiệp bán hàng cho họ, phải sử dụng nhà chuyên chở Algérie và mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm Algérie. Do đó, bạn hãy sử dụng điều kiện bán FOB.
- 3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng là vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần đặc biệt chú ý.
Khi nói đến hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thường có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể được ký kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi hay bằng bất kỳ hình thức nào khác do các bên tự do thoả thuận. Các nước theo quan điểm này hầu hết là các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, như Anh, Pháp, Mỹ...
Quan điểm thứ hai: Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được ký kết dưới hình thức văn bản. Những nước nêu ra quan điểm này là một số nước có nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam. Điều 27 khoản 2 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: "Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng các hình thức có giá trị pháp lý tương đương". Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương ở đây bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật (điều 3 khoản 15 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005).
Sự bất đồng quan điểm này làm cho Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá phải lựa chọn sự dung hòa bằng cách đưa vào Công ước những quy định theo hướng công nhận cả hai điều khoản liên quan đến hình thức của hợp đồng. Điều 11 của Công ước quy định rằng hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá có thể được ký kết bằng lời nói và không cần thiết phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào khác về mặt hình thức của hợp đồng. Còn điều 96 thì lại cho phép các quốc gia bảo lưu, không áp dụng điều 11 trên nếu luật pháp của quốc gia đó quy định hình thức văn bản là bắt buộc đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Điều này có nghĩa là, nếu Việt Nam tham gia vào Công ước thì Việt Nam được quyền bảo lưu không áp dụng điều 11 của Công ước vì pháp luật Việt Nam quy định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được ký kết bằng văn bản.
Lời khuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam là mọi hợp đồng mua bán ký với các đối tác nước ngoài phải được lập bằng văn bản. Ký bằng văn bản sẽ giúp các bên có được bằng chứng đầy đủ khi phải ra tranh tụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh. Ký bằng văn bản sẽ tạo điều kiện cho sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng có hiệu quả hơn. Ngoài ra, ký hợp đồng bằng văn bản cũng tỏ rõ nhiều ưu thế hơn so với hình thức phi văn bản (xem bảng 1).
Bảng : So sánh lợi ích của hình thức văn bản và hình thức miệng
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế |
|
Văn bản |
Miệng |
Tính an toàn |
|
Cả hai bên đều biết chính xác là họ đã thỏa thuận điều gì, nếu có liên quan đến điều gì thì có thể kiểm tra lại trong hợp đồng |
Sau một thời gian cả hai bên có thể không đồng ý về những cái đã hứa với nhau. |
Tính toàn diện |
|
Khi thảo hợp đồng các bên có thể thỏa thuận về những điều khoản phụ mà họ quên khi thảo luận trực tiếp |
Một số điều khoản nhỏ nhưng quan trọng có thể sẽ không được đề cập. Điều đó sẽ trở thành vấn đề khi hợp đồng "trục trặc" |
Liên quan tới người thứ ba |
|
Nếu bên thứ ba (ví dụ công ty mẹ) muốn nghiên cứu hợp đồng thì dạng văn bản dễ chuyển và dễ hiểu hơn |
Hợp đồng miệng sẽ khó giải thích cho người thứ ba. Điều này có thể gây ra nhiều vấn đề trong các công ty đa quốc gia ở các nước phát triển |
Tính rõ ràng |
|
Khi xảy ra tranh chấp, kiện tụng thì hợp đồng văn bản sẽ là bằng chứng cho những gì hai bên đã thoả thuận |
Nếu có tranh chấp, cơ quan xét xử không thể phán đoán được hai bên đã thỏa thuận với nhau những gì. |
Bên cạnh đó, khi nói đến hình thức hợp đồng mua bán ngoại thương, cũng cần lưu ý đến cái gọi là: "hình thức có giá trị pháp lý tương đương văn bản" như điều 3 khoản 15 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định. Thực chất điều này là nói về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký dưới dạng hợp đồng điện tử. Điều 33 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định: "Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu". Nói cách khác, hợp đồng điện tử là hợp đồng được ký kết thông qua các phương tiện điện tử như thư điện tử, điện báo, fax, telex, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là pháp luật thương mại Việt Nam đã thừa nhận những hợp đồng ký bằng fax, thư điện tử...có giá trị pháp lý như ký bằng văn bản. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý rằng bên cạnh những tiện ích mà hợp đồng điện tử mang lại, các bên phải đối mặt với nhiều rủi ro cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt thương mại cũng như cả về mặt pháp lý.
Một hợp đồng được hình thành khi một đề nghị giao kết hợp đồng (thường được gửi dưới dạng một đơn chào hàng) được chấp nhận. Đối với hợp đồng điện tử, các vấn đề có thể phát sinh khi một đơn chào hàng hoặc một sự chấp nhận bị mạo danh bởi một người nào đó không có thẩm quyền về mặt pháp lý để ràng buộc công ty với hợp đồng. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp có thể nhận được đơn chào hàng hay đơn đặt hàng được ký bởi một chữ ký không đảm bảo an toàn, ví dụ như loại chữ ký gồm các ký tự đơn giản, chữ ký là một bản quét chữ ký viết tay, v.v… Trong trường hợp như vậy, doanh nghiệp cần có một thư điện tử yêu cầu đối tác xác nhận thông tin đã nêu nhằm tránh những rủi ro có thể phát sinh. Nếu doanh nghiệp không có sự xác nhận lại như thế hoặc không có những thủ tục ràng buộc, rất có khả năng một người khác đang lợi dụng những thông tin của bên đối tác để gửi đơn chào hàng hoặc đơn đặt hàng giả. Nếu thực hiện việc giao hàng (hoặc cung ứng dịch vụ) theo những đơn chào hàng, đơn đặt hàng đó, doanh nghiệp sẽ gánh chịu thiệt hại về vật chất do gặp rủi ro không lấy được tiền hàng.
Bên cạnh đó, đối với hợp đồng điện tử, vấn đề về lưu trữ chữ ký điện tử cũng là vấn đề phức tạp. Doanh nghiệp sử dụng chữ ký điện tử cần phải có sự đảm bảo về việc bảo mật cho các chữ ký dạng này được lưu giữ trong các máy vi tính vì trong trường hợp bất kỳ, nếu một người nào tiếp cận được với chữ ký đó và dùng nó để ký hợp đồng thì doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải công nhận hiệu lực của hợp đồng điện tử đã ký kết trước đối tác của mình, về mặt pháp lý, dù điều đó bất lợi cho mình. Hoặc nếu doanh nghiệp để lọt mật mã vào tay người khác, người này có thể giả mạo doanh nghiệp để giao kết hợp đồng điện tử với đối tác. Trong những trường hợp như vậy, doanh nghiệp có thể sẽ chịu rất nhiều rủi ro như: mất danh tiếng, phải thực hiện những hợp đồng không phải do mình ký, đối tác không tin tưởng v.v…
Nếu có tranh chấp xảy ra, bất lợi sẽ rơi vào doanh nghiệp không có khả năng bảo mật và kiểm soát việc sử dụng các phương tiện điện tử, bởi vì, bằng chứng để chứng minh nhằm ràng buộc bên có hành vi mạo nhận hoặc lừa đảo là rất khó khăn và tốn kém. Nói chung, các toà án sẽ không bắt giữ các cá nhân hoặc tổ chức bị mạo danh với các điều khoản của hợp đồng, tuy nhiên nếu do tính cẩu thả của các cá nhân hoặc tổ chức này khiến cho việc giả mạo phát triển tới mức thành lừa đảo thì họ có thể bị toà án buộc tội cho việc phá vỡ hợp đồng. Ví dụ, nếu một công ty cẩu thả trong việc bảo vệ mật khẩu và khiến cho người giả mạo dễ dàng gia nhập vào hệ thống của công ty và chấp nhận đơn chào hàng, toà án có thể bắt công ty này phải thực hiện hợp đồng.
Nguyễn Xuân Công
_________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Luật Thương mại Việt Nam năm 2005;
2.Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 quy định chi tiết về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế, đại lý, gia công, quá cảnh hàng hoá với nước ngoài;
3.Thông tư số 04/2006/TT-BTM ngày 06/04/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn thực hiện Nghị định số 12/2006/NĐ-CP;
4.Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế;
5.Incotenms 2000; Hướng dẫn sử dụng Incotenms 2000.
Các quy tắc về lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế
Ngày 19 tháng 3 năm 2015 Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế đã thông qua Các quy tắc về lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế. Vụ Pháp luật quốc tế xin đăng toàn văn Các quy tắc này đã được dịch sang tiếng Việt để độc giả tham khảo
Các quy tắc về lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế
(Thông qua ngày 19/3/2015)
Giới thiệu về Các quy tắc La Hay về lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế
I.1 Khi các bên tham gia vào một hợp đồng có mối liên hệ với nhiều quốc gia, vấn đề bên nào xác định các quy tắc pháp luật điều chỉnh giao dịch thường phát sinh. Câu trả lời rõ ràng là quan trọng với tòa án hoặc hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp giữa các bên, và việc hiểu biết các quy tắc điều chỉnh nghĩa vụ của mình cũng quan trọng với chính các bên liên quan trong việc hoạch định và thực hiện giao dịch.
I.2 Xác định pháp luật áp dụng đối với một hợp đồng mà không tính đến ý chí rõ ràng của các bên trong hợp đồng đó có thể dẫn đến tình trạng không chắc chắn về mặt pháp lý vì sự khác biệt về cách giải quyết vấn đề giữa các quốc gia khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân mà khái niệm quyền tự định đoạt của các bên ("party autonomy") trong việc xác định pháp luật áp dụng được phát triển và chiếm ưu thế.
I.3 Quyền tự định đoạt của các bên, đề cập đến quyền năng của các bên trong hợp đồng trong việc lựa chọn pháp luật điều chỉnh hợp đồng đó, tăng cường sự chắc chắn và dự đoán trước được trong thoả thuận hợp đồng chính giữa các bên và ghi nhận rằng các bên trong hợp đồng có thể ở vị trí tốt nhất để xác định những nguyên tắc pháp lý nào là phù hợp nhất với giao dịch của mình. Nhiều quốc gia đã đi đến kết luận này và, vì vậy, khiến cho quyền tự định đoạt của các bên trở thành cách tiếp cận chủ đạo hiện nay. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa được áp dụng ở tất cả mọi nơi.
I.4 Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế ("Hội nghị La Hay") tin tưởng rằng những lợi ích do quyền tự định đoạt của các bên mang lại là quan trọng và khuyến khích việc mở rộng khái niệm này tại các quốc gia chưa áp dụng, hoặc đã áp dụng nhưng có những hạn chế đáng kể, cũng như tiếp tục phát triển và hoàn thiện khái niệm này khi nó đã được chấp nhận.
I.5 Theo đó, Hội nghị La Hay đã ban hành Các quy tắc La Hay về lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế ("Các quy tắc"). Các quy tắc có thể được coi như một giải thích về cách thức xây dựng một cơ chế lựa chọn pháp luật toàn diện để tạo hiệu lực cho quyền tự định đoạn của các bên và một hướng dẫn về các "thực tiễn tốt nhất" (best practices) trong xây dựng và hoàn thiện một hệ thống như vây.
Thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng
I.6 Lựa chọn pháp luật của các bên phải được phân biệt với các thỏa thuận hợp đồng chính giữa các bên ("Hợp đồng chính"). Hợp đồng chính có thể, ví dụ, là một hợp đồng mua bán, hợp đồng dịch vụ hoặc hợp đồng cho vay. Các bên có thể lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng chính của mình hoặc bằng một thỏa thuận riêng về lựa chọn pháp luật áp dụng (sau đây gọi là một "thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng").
I.7 Thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cũng nên được phân biệt với điều khoản hay thỏa thuận về thẩm quyền, điều khoản hay thỏa thuận về lựa chọn nơi xét xử, hoặc điều khoản hay thỏa thuận về lựa chọn tòa án, tất cả các thỏa thuận này đồng nghĩa chỉ thỏa thuận của các bên về nơi xét xử (thường là tòa án) sẽ giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cũng nên được phân biệt với điều khoản hay thỏa thuận trọng tài để chỉ thỏa thuận của các bên đưa tranh chấp ra giải quyết tại hội đồng trọng tài. Mặc dù các điều khoản hoặc thỏa thuận này (gọi chung là"thỏa thuận về giải quyết tranh chấp") thực tiễn thường được kết hợp với thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng, chúng phục vụ những mục đích khác nhau. Các quy tắc chỉ áp dụng với thỏa thuận lựa chọn pháp luật mà không phải là thỏa thuận về giải quyết tranh chấp hay các vấn đề khác thường được coi là những vấn đề về mặt thủ tục tố tụng.
Bản chất của Các quy tắc
I.8 Như tiêu đề đã chỉ ra, Các quy tắc không tạo thành một văn kiện có tính ràng buộc chính thức như một Công ước mà các quốc gia có nghĩa vụ phải trực tiếp áp dụng hoặc nội luật hóa vào trong pháp luật quốc gia. Cũng như văn kiện này không phải là một luật mẫu mà các quốc gia được khuyến khích ban hành. Thay vào đó, đây là một bộ nguyên tắc không có tính ràng buộc mà Hội nghị La Hay khuyến khích các quốc gia kết hợp vào trong cơ chế lựa chọn pháp luật áp dụng của quốc gia mình theo cách thức phù hợp với hoàn cảnh của từng quốc gia. Bằng cách này, Các quy tắc có thể định hướng cải cách pháp luật quốc gia về lựa chọn pháp luật áp dụng và Các quy tắc có thể vận hành bên cạnh các văn kiện hiện có về cùng nội dung này (xem Bản quy định Rome I và Công ước thành phố Mexico, cả hai văn kiện này đều thể hiện và áp dụng khái niệm quyền tự định đoạt của các bên).
I.9 Là một văn kiện không có tính ràng buộc, Các quy tắc khác biệt với những văn kiện khác do Hội nghị La Hay xây dựng. Trong khi Hội nghị La Hay không loại trừ khả năng phát triển một văn kiện có tính ràng buộc trong tương lai, Hội nghị cho rằng một bộ quy tắc không có tính ràng buộc mà có tính khuyến nghị là phù hợp hơn ở thời điểm hiện tại để gia tăng sự chấp nhận đối với nguyên tắc về quyền tự định đoạt của các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế và phát triển các cơ chế pháp lý được thiết kế phù hợp áp dụng nguyên tắc này một cách hài hòa và khả thi. Vì Các quy tắc có tác động tới cải cách pháp luật, chúng nên khuyến khích sự hài hòa hóa giữa các quốc gia trong giải quyết vấn đề này và có thể nhờ đó dẫn đến hoàn cảnh phù hợp cho một văn kiện có tính ràng buộc.
I.10 Trong khi việc thông qua các nguyên tắc không có tính ràng buộc như vậy là cách thức mới đối với Hội nghị La Hay, các văn kiện dạng này lại khá phổ biến. Trên thực tế, Các quy tắc đã bổ sung vào số lượng ngày càng lớn các văn kiện không có tính ràng buộc của các tổ chức khác đã đạt được thành công trong xây dựng và hài hòa hóa pháp luật. Xem, ví dụ, tác động của các quy tắc của UNIDROIT và PECL trong phát triển pháp luật về hợp đồng.
Mục đích và phạm vi của Các quy tắc
I.11 Mục đích chủ yếu của Các quy tắc là tăng cường quyền tự định đoạt của các bên và bảo đảm pháp luật được các bên lựa chọn có phạm vi áp dụng rộng nhất, tuân theo những giới hạn được xác định rõ ràng (Lời mở đầu, đoạn 1).
I.12 Để áp dụng Các quy tắc này, hai tiêu chí phải được thỏa mãn. Thứ nhất, hợp đồng có liên quan phải có tính "quốc tế". Một hợp đồng có tính quốc tế theo nghĩa của Các quy tắc này trừ khi các bên có cùng cơ sở kinh doanh ("establishment") tại cùng một quốc gia và mối quan hệ giữa các bên và tất cả các yếu tố có liên quan khác, không kể pháp luật được lựa chọn, chỉ liên quan đến quốc gia đó (xem Điều 1 (2)). Tiêu chí thứ hai là mỗi bên trong hợp đồng phải thực hiện hoạt động thương mại hoặc nghề nghiệp của mình (xem Điều 1 (1)). Các quy tắc loại trừ rõ ràng khỏi phạm vi của mình một số loại hợp đồng cụ thể trong đó quyền đàm phán hợp đồng của một bên- người tiêu dùng hoặc người lao động được coi là yếu hơn (xem Điều 1 (1)).
I.13 Trong khi mục tiêu của Các quy tắc là nâng cao sự chấp nhận với quyền tự định đoạt của các bên trong lựa chọn pháp luật áp dụng, Các quy tắc cũng quy định những hạn chế đối với quyền tự định đoạt đó. Những hạn chế quan trọng nhất với quyền tự định đoạt và với việc áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn được quy định tại Điều 11. Điều 11 chỉ ra những hạn chế là hậu quả của các quy định bắt buộc ưu tiên và trật tự công (ordre public). Mục tiêu của những giới hạn này là để đảm bảo rằng, trong những trường hợp nhất định, lựa chọn pháp luật của các bên không tạo ra hậu quả loại trừ các quy tắc và chính sách nhất định có vai trò quan trọng đối với các quốc gia.
1.14 Các quy tắc cung cấp các quy định chỉ cho những tình huống mà các bên đã đựa ra lựa chọn pháp luật áp dụng (rõ ràng hoặc ngầm hiểu) bằng thỏa thuận. Các quy tắc không áp dụng với các quy định về lựa chọn pháp luật áp dụng khi các bên không có thỏa thuận. Nguyên nhân của sự loại trừ này có hai lớp. Thứ nhất, mục tiêu của Các quy tắc là đưa quyền tự định đoạt tiến xa hơn mà không phải là cung cấp một hệ thống các quy tắc để xác định pháp luật áp dụng với hợp đồng thương mại quốc tế. Thứ hai, hiện chưa có sự đồng thuận về các quy tắc xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp không có thỏa thuận. Tuy nhiên, giới hạn với phạm vi áp dụng của các Quy tắc không loại trừ việc sau này Hội nghị La Hay sẽ phát triển các quy tắc về xác định pháp luật áp dụng với hợp đồng trong trường hợp không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng.
Nội dung của các Quy tắc
I.15 Lời mở đầu và 12 điều tạo thành văn kiện này có thể được coi là một bộ luật quốc tế về các thực tiễn tốt nhất hiện này liên quan đến công nhận quyền tự định đoạt của các bên trong lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế, với những điều khoản tiên tiến phù hợp.
I.16 Một số quy định phản ánh cách tiếp cận là nội dung của sự đồng thuận quốc tế rộng rãi. Các quy định này bao gồm khả năng cơ bản của các bên trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng (Lời mở đầu, đoạn thứ nhất và Điều 2 (1)) và các hạn chế phù hợp với việc áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn (xem Điều 11). Hy vọng rằng một quốc gia đã chấp nhận một hệ thống ủng hộ quyền tự định đoạt của các bên sẽ thông qua các quy tắc phù hợp với những quy định này.
I.17 Các quy định khác phản ánh quan điểm của Hội nghị La Hay về thực tiễn tốt nhất và cung cấp những giải thích hữu ích cho các quốc gia đã chấp nhận quyền tự định đoạt của các bên. Các quy tắc này bao gồm quy định về xác định khả năng các bên được lựa chọn pháp luật khác nhau điều chỉnh những phần khác nhau của hợp đồng (xem Điều 2 (2)), được ngầm chọn pháp luật áp dụng (Điều 4) và thay đổi lựa chọn pháp luật áp dụng của mình (xem Điều 2(3)), cũng như không đòi hỏi có mối liên hệ giữa pháp luật được chọn và giao dịch hay các bên (xem Điều 2(4)). Cũng như vậy, phù hợp với các cơ chế của nhiều quốc gia và các văn kiện khu vực, Điều 7 quy định hiệu lực riêng rẽ giữa thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng với hợp đồng chính, và Điều 9 mô tả phạm vi của pháp luật áp dụng. Các quy định về thực tiễn tốt nhất khác đưa ra chỉ dẫn về làm thế nào để xác định phạm vi áp dụng của pháp luật đã được lựa chọn trong bối cảnh quan hệ ba bên khi có sự thế quyền trong hợp đồng (xem Điều 10) và làm thế nào để giải quyết vấn đề khi các bên có cơ sở kinh doanh ở nhiều quốc gia (xem Điều 12). Những quy định về thực tiễn tốt này cung cấp những khuyến nghị quan trọng cho các quốc gia trong ban hành hoặc hiện đại hóa cơ chế ủng hộ quyền tự định đoạt của các bên. Tuy nhiên, Hội nghị La Hay nhận thấy một quốc gia có thể có cơ chế ủng hộ quyền tự định đoạt của các bên một cách hiệu quả mà không chấp nhận toàn bộ các thực tiễn tốt này.
I.18 Các quy định nhất định trong Các quy tắc phản ánh những cách thức giải quyết vấn đề mới. Một trong những tính chất quan trọng nhất được thể hiện tại Điều 3, cho phép các bên lựa chọn không chỉ pháp luật của một quốc gia mà cả các "nguyên tắc pháp luật", phát triển từ các nguồn phi quốc gia, trong những giới hạn nhất định. Về mặt lịch sử, việc lựa chọn các quy tắc hay "nguyên tắc pháp luật" thường được sử dụng điển hình trong bối cảnh giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Khi tranh chấp được đưa ra tranh tụng trước tòa án của một quốc gia, các quy tắc tư pháp quốc tế thường yêu cầu thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng của các bên phải chỉ ra hệ thống pháp luật của một quốc gia. Một số cơ chế cho phép các bên được kết hợp bằng cách chỉ dẫn trong hợp đồng các nguyên tắc pháp luật hoặc tập quán thương mại. Tuy nhiên, sự kết hợp bằng cách chỉ dẫn này, khác với việc cho phép các bên chọn lựa nguyên tắc pháp luật là pháp luật áp dụng với hợp đồng của họ.
I.19 Các quy định tiên tiến khác bao gồm các quy định tại các Điều 5,6 và 8. Điều 5 quy định các quy tắc có tính chất căn bản của tư pháp quốc tế là không có yêu cầu cụ thể nào về mặt hình thức đối với thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng để thỏa thuận đó có hiệu lực, trừ khi các bên thỏa thuận khác. Trong số các quy định tại Điều 6 có quy định về giải pháp đối với vấn đề khó khăn là xung đột về hình thức ("battle of forms") hay, cụ thể hơn là hậu quả khi cả hai bên đều lựa chọn pháp luật thông qua trao đổi điều khoản tiêu chuẩn. Điều 8 quy định loại trừ dẫn chiếu, nhưng không giống như một số văn kiện khác, quy định này cho phép các bên được thỏa thuận khác một cách rõ ràng.
Những người sử dụng Bản quy tắc
I.20 Những người sử dụng tiềm năng của Bản quy tắc này bao gồm nhà làm luật, tòa án và hội đồng trọng tài, các bên và người tư vấn pháp lý cho các bên.
a. Với nhà làm luật (cho dù là người xây dựng pháp luật hay tòa án), các quy tắc tạo thành một hình mẫu có thể được sử dụng để tạo mới, bổ sung hoặc phát triển thêm các quy tắc sẵn có về lựa chọn pháp luật áp dụng (Lời mở đầu, các đoạn 2-3). Vì tính chất không ràng buộc của Các quy tắc, nhà làm luật ở các cấp độ quốc gia, khu vực, siêu quốc gia hoặc quốc tế có thể áp dụng Các quy tắc toàn bộ hoặc một phần. Các nhà luật cũng vẫn duy trì khả năng đưa ra các quyết sách khi nào Các quy tắc phải nhường chỗ cho pháp luật nơi xét xử (xem các điều 3, 11(2) và 11(4)).
b. Với tòa án và hội đồng trọng tài, Các quy tắc cung cấp hướng dẫn làm cách nào tiếp cận với vấn đề liên quan đến hiệu lực và hậu quả của thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng và giải quyết các tranh chấp về thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng trong cơ chế pháp lý được ưu tiên (Lời mở đầu, các đoạn 3-4). Các quy tắc có thể hữu ích đặc biệt trong giải quyết các vấn đề mới.
c. Với các bên và người tư vấn pháp lý của họ, Các quy tắc cung cấp hướng dẫn về pháp luật hoặc nguyên tắc pháp luật mà các bên có thể lựa chọn một cách hợp pháp và các giới hạn liên quan và những vấn đề cần cân nhắc khi đưa ra lựa chọn pháp luật áp dụng, bao gồm cả các vấn đề quan trọng như hiệu lực và hậu quả của sự lựa chọn của họ, và soạn thảo thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng có hiệu lực thi hành.
I.21 Người sử dụng các quy tắc được khuyến khích đọc các điều khoản kèm theo Lời mở đầu và Phần bình luận. Phần bình luận đi kèm với mỗi điều khoản và đóng vai trò là công cụ giải thích. Bình luận bao gồm nhiều ví dụ thực tế minh họa cho việc áp dụng Các quy tắc. Cấu trúc và độ dài của mỗi phần bình luận và minh họa khác nhau phụ thuộc vào mức độ chi tiết cần thiết để hiểu mỗi điều khoản. Phần bình luận cũng bao gồm các chỉ dẫn so sánh với các văn kiện khu vực, siêu quốc gia hoặc quốc tế và tới lịch sử soạn thảo, khi những chỉ dẫn này hỗ trợ cho việc giải thích. Người sử dụng cũng có thể muốn tìm hiểu tài liệu tham khảo và các tài liệu khác có sẵn trên trang thông tin của Hội nghị La Hay.
Lời mở đầu
Văn kiện này đưa ra các quy tắc chung về lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế. Các quy tắc khẳng định nguyên tắc quyền tự định đoạt của các bên với những ngoại lệ hạn chế.
Các quy tắc có thể được sử dụng như một hình mẫu cho các văn kiện của quốc gia, khu vực, siêu quốc gia hoặc quốc tế.
Các quy tắc có thể được sử dụng để giải thích, bổ sung và phát triển các quy tắc của tư pháp quốc tế.
Các quy tắc có thể được tòa án hoặc hội đồng trọng tài áp dụng.
Điều 1- Phạm vi áp dụng của Các quy tắc
1. Các quy tắc áp dụng với lựa chọn pháp luật áp dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế khi mỗi bên thực hiện hoạt động thương mại hoặc nghề nghiệp của mình. Chúng không áp dụng với hợp đồng tiêu dùng hoặc lao động.
2. Vì mục đích của Các quy tắc này, một hợp đồng là có tính chất quốc tế trừ khi mỗi bên có cơ sở kinh doanh tại cùng một quốc gia và mối liên hệ giữa các bên và tất cả các yếu tố liên quan, không kể pháp luật được lựa chọn, chỉ liên quan đến quốc gia đó.
3. Các quy tắc không áp dụng đối với pháp luật điều chỉnh
a) năng lực của cá nhân;
b) thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận lựa chọn tòa án;
c) công ty hoặc các tổ chức khác và tín thác (trusts);
d) phá sản;
e) hậu quả về tài sản của hợp đồng;
f) vấn đề người đại diện có thể ràng buộc người được đại diện với bên thứ ba hay không.
Điều 2- Tự do lựa chọn
1. Một hợp đồng được điều chỉnh bởi pháp luật do các bên lựa chọn.
2. Các bên có thể chọn:
a) pháp luật áp dụng đối với toàn bộ hoặc chỉ một phần của hợp đồng; và
b) pháp luật khác nhau áp dụng với những phần khác nhau của hợp đồng.
3. Lựa chọn có thể được thực hiện hoặc thay đổi vào bất kỳ thời điểm nào. Một lựa chọn hoặc thay đổi được đưa ra sau khi hợp đồng được ký kết không ảnh hưởng đến hiệu lực trước đó hoặc quyền của bên thứ ba.
4. Không cần có mối liên hệ giữa pháp luật được chọn và các bên hoặc giao dịch của họ.
Điều 3- Nguyên tắc pháp luật
Pháp luật được chọn bởi các bên có thể là nguyên tắc pháp luật được chấp nhận chung ở cấp độ quốc tế, siêu quốc gia hoặc khu vực với tư cách một hệ thống các quy tắc trung lập và hài hòa, trừ khi pháp luật của nơi xét xử quy định khác.
Điều 4- Lựa chọn rõ ràng và ngầm hiểu
Một lựa chọn pháp luật áp dụng, hoặc bất kỳ thay đổi lựa chọn pháp luật áp dụng nào phải được đưa ra rõ ràng hoặc thể hiện rõ ràng từ các quy định của hợp đồng hoặc hoàn cảnh. Một thỏa thuận giữa các bên liên quan đến thẩm quyền của tòa án hoặc hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp theo hợp đồng không tự bản thân tương đương với một thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng.
Điều 5- Hiệu lực về hình thức của lựa chọn pháp luật áp dụng
Một lựa chọn pháp luật áp dụng không bị ràng buộc vào bất kỳ yêu cầu nào về mặt hình thức trừ khi các bên thỏa thuận khác.
Điều 6- Thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng và xung đột về mặt hình thức
1. Tuân theo đoạn 2 của Điều này
a) việc các bên đã đồng ý với một thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng hay chưa được xác định bởi pháp luật được cho là đã được các bên thỏa thuận;
b) nếu các bên sử dụng điều khoản tiêu chuẩn xác định hai pháp luật khác nhau và theo cả hai pháp luật đó thì cùng một điều khoản tiêu chuẩn được ưu tiên, pháp luật được xác định trong điều khoản tiêu chuẩn ưu tiên được áp dụng; nếu theo mỗi pháp luật đó các điều khoản tiêu chuẩn khác nhau được ưu tiên hoặc nếu theo một hoặc cả hai pháp luật đó không điều khoản tiêu chuẩn nào được ưu tiên thì không có lựa chọn pháp luật.
2. Pháp luật của quốc gia nơi một bên có cơ sở kinh doanh xác định bên đó đã đồng ý với lựa chọn pháp luật hay chưa, nếu phụ thuộc vào hoàn cảnh việc xác định pháp luật áp dụng quy định tại đoạn 1 là bất hợp lý.
Điều 7-Tính chất độc lập
Một lựa chọn pháp luật áp dụng không thể bị phản đối chỉ vì lý do rằng hợp đồng mà nó áp dụng không có hiệu lực.
Điều 8- Loại trừ dẫn chiếu
Một lựa chọn pháp luật áp dụng không dẫn chiếu đến các quy tắc của tư pháp quốc tế của pháp luật do các bên lựa chọn trừ khi các bên thể hiện rõ ý định khác.
Điều 9- Phạm vi áp dụng của pháp luật được lựa chọn
1. Pháp luật do các bên lựa chọn điều chỉnh tất cả các vấn đề của hợp đồng giữa các bên, bao gồm nhưng không giới hạn ở:
a) giải thích;
b) quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng;
c) thực hiện và hậu quả của việc không thực hiện hợp đồng, bao gồm cả đánh giá thiệt hại;
d) các cách thức khác nhau để chấm dứt nghĩa vụ, và thời hiệu, thời hạn;
e) hiệu lực của hợp đồng và hậu quả của hợp đồng vô hiệu;
f) nghĩa vụ chứng minh và các giả định pháp lý;
g) nghĩa vụ tiền hợp đồng.
2. Đoạn 1 e) không loại trừ việc áp dụng bất kỳ pháp luật điều chỉnh nào ủng hộ hiệu lực về mặt hình thức của hợp đồng.
Điều 10- Thế quyền
Trường hợp có sự thế quyền trong hợp đồng đối với người có nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng giữa người có nghĩa vụ và người có quyền-
a) nếu các bên trong hợp đồng thế quyền đã lựa chọn pháp luật điều chỉnh hợp đồng đó, pháp luật được chọn điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ giữa người có quyền và người thế quyền với nhau phát sinh từ hợp đồng đó;
b) nếu các bên trong hợp đồng giữa người có nghĩa vụ và người có quyền đã lựa chọn pháp luật điều chỉnh hợp đồng đó, pháp luật được chọn điều chỉnh-
i) việc thế quyền có thể được viện dẫn đối với người có nghĩa vụ hay không;
ii) quyền của người thế quyền đối với người có nghĩa vụ; và
iii) nghĩa vụ của người có nghĩa vụ đã được chấm dứt hay chưa.
Điều 11- Các quy định bắt buộc ưu tiên và trật tự công
1. Các quy tắc này không cản trở tòa án áp dụng các quy định bắt buộc ưu tiên trong pháp luật nước nơi xét xử mà các quy định này được áp dụng không kể pháp luật do các bên lựa chọn là pháp luật nào.
2. Pháp luật của nước nơi xét xử xác định khi nào một tòa án có thể hoặc phải áp dụng hay cân nhắc các quy định bắt buộc ưu tiên của pháp luật khác.
3. Một tòa án có thể loại trừ việc áp dụng một quy định pháp luật được các bên lựa chọn chỉ khi và trong phạm vi mà hậu quả của việc áp dụng rõ ràng trái với các nội hàm cơ bản của trật tự công của pháp luật nước nơi xét xử.
4. Pháp luật của nước nơi xét xử xác định khi nào một tòa án có thể hoặc phải áp dụng hay cân nhắc đến trật tự công của một quốc gia mà pháp luật của quốc gia đó có thể được áp dụng nếu không có lựa chọn pháp luật áp dụng.
5. Các quy tắc này không cản trở hội đồng trọng tài áp dụng hoặc cân nhắc đến trật tự công hoặc áp dụng hay cân nhắc đến các quy định bắt buộc ưu tiên của pháp luật không phải do các bên lựa chọn, nếu hội đồng trọng tài có nghĩa vụ hoặc có quyền làm như vậy.
Điều 12- Cơ sở kinh doanh
Nếu một bên có nhiều cơ sở kinh doanh, cơ sở kinh doanh liên quan đến mục đích của Các quy tắc này là cơ sở kinh doanh có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng vào thời điểm hợp đồng được ký kết.
(Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp)
Có thể bạn quan tâm:
Xuất khẩu phần mềm được luật quy định như thế nào?
Phần mềm xuất, nhập khẩu qua mạng internet có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hải quan?
Quy trình Logistics trong xuất khẩu đường biển
Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Quá trình tổ chức hoạt động xuất khẩu hàng hoá
Các bước cơ bản thông quan hàng xuất nhập khẩu
Danh sách website B2B phục vụ xuất nhập khẩu, logistics
15 nguyện tắc văn hóa kinh doanh quốc tế khi giao dịch xuất nhập ...
Phân biệt OEM, ODM, OBM trong hàng hoá xuất nhập khẩu
Một số vị trí công việc ngành xuất nhập khẩu, logistics bạn nên biết
DVMS chuyên:
- Tư vấn, xây dựng, chuyển giao công nghệ Blockchain, mạng xã hội,...
- Tư vấn ứng dụng cho smartphone và máy tính bảng, tư vấn ứng dụng vận tải thông minh, thực tế ảo, game mobile,...
- Tư vấn các hệ thống theo mô hình kinh tế chia sẻ như Uber, Grab, ứng dụng giúp việc,...
- Xây dựng các giải pháp quản lý vận tải, quản lý xe công vụ, quản lý xe doanh nghiệp, phần mềm và ứng dụng logistics, kho vận, vé xe điện tử,...
- Tư vấn và xây dựng mạng xã hội, tư vấn giải pháp CNTT cho doanh nghiệp, startup,...
Vì sao chọn DVMS?
- DVMS nắm vững nhiều công nghệ phần mềm, mạng và viễn thông. Như Payment gateway, SMS gateway, GIS, VOIP, iOS, Android, Blackberry, Windows Phone, cloud computing,…
- DVMS có kinh nghiệm triển khai các hệ thống trên các nền tảng điện toán đám mây nổi tiếng như Google, Amazon, Microsoft,…
- DVMS có kinh nghiệm thực tế tư vấn, xây dựng, triển khai, chuyển giao, gia công các giải pháp phần mềm cho khách hàng Việt Nam, USA, Singapore, Germany, France, các tập đoàn của nước ngoài tại Việt Nam,…
Quý khách xem Hồ sơ năng lực của DVMS tại đây >>
Quý khách gửi yêu cầu tư vấn và báo giá tại đây >>